Kiểm sát hoạt động hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Luật hòa
giải, đối thoại tại Tòa án đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Hiện chưa có
hướng dẫn cụ thể của Viện KSND tối cao về hoạt động hòa giải, đối thoại tại tòa
án. Tuy nhiên, theo điều 58 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) và
điều 43 Luật tố tụng hành chính (LTTHC)
quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên, trong đó có quyền kiểm sát Bản
án, quyết định của Tòa án.
Theo đó Quyết định công nhận hòa giải thành,
đối thoại thành theo Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án cũng thuộc đối tượng
kiểm sát của Viện kiểm sát.
Tại khoản 4 điều 32
Luật hòa giải, đối thoại quy định: Quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa
giải thành, đối thoại thành
được gửi
cho các bên và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ
ngày Tòa án ra quyết định.
Tại khoản 3 Điều 36 Luật hòa giải, đối thoại
quy định: Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị xem xét
lại quyết
định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án.
Tại Điều 37
quy định về thủ tục đề nghị, kiến nghị xem xét lại
quyết định công
nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành
tại Tòa án
Người đề nghị, Viện kiểm sát kiến nghị
xem xét lại quyết định công nhận kết quả hòa
giải thành, đối thoại thành
phải gửi
đơn đề nghị, văn bản kiến nghị đến Tòa
án cấp trên trực tiếp của Tòa
án đã ra quyết định
công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.
Theo các quy định trên
thì sau khi ra quyết định công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa
giải thành, đối thoại thành
thì Tòa án phải gửi quyết định đó cho Viện kiểm sát trong thời hạn 03 ngày làm
việc kể từ ngày Tòa án ra quyết định và trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được quyết định thì Viện kiểm sát có quyền gửi văn bản kiến nghị đến Tòa án cấp
trên trực tiếp của Tòa án đã ra quyết định xem xét lại quyết định công
nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành
nếu quyết định đó có vi phạm pháp luật.
Ngày
16/11/2020 Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 02/2020/TT-TANDTC
quy định chi tiết về trách nhiệm của TAND trong hoạt động hòa giải, đối thoại
tại Tòa án và Thông tư số 03/2020/TT-TANDTC (gọi tắt là TT 02 – 03) quy định chi tiết về trình tự nhận, xử lý
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án và chỉ định hòa giải viên.
Tại
khoản 2 Thông tư 03/2020 quy định thủ tục nhận đơn khởi
kiện, đơn yêu cầu tại Tòa án, cụ thể:
1. Khi nhận được đơn khởi kiện về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; đơn yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn; đơn khởi kiện vụ án hành
chính kèm theo tài liệu, chứng cứ theo quy
định tại Điều 190 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 119 của Luật Tố tụng hành
chính, Tòa án ghi vào sổ nhận đơn, xác nhận việc nhận đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 191 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 121 của
Luật Tố tụng hành chính.
2. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, đơn yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều này, bộ phận tiếp nhận đơn xem xét đơn và báo cáo để Chánh án xử lý đơn như sau:
a) Phân công Thẩm phán xem xét, giải quyết đơn khởi kiện, đơn yêu cầu theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính nếu vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 4, 5, 6 và 7 Điều 19 của Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án; các điểm a, b, c, đ và g khoản 1 Điều 192 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điểm a,
b, c, d, đ và e khoản 1 Điều 123, điểm g
khoản 1 Điều 143 của Luật Tố tụng hành chính;
b) Thực hiện thủ tục thông báo cho người khởi kiện, người yêu cầu biết về quyền được lựa chọn hòa giải, đối thoại và lựa chọn Hòa giải viên theo
quy định tại Điều 3 của Thông tư
này nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều này…
Để
thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự, HNGĐ, các vụ án hành chính, kinh doanh thương mại, lao
động, đặc biệt là kiểm sát tốt hoạt động hòa giải, đối thoại theo Luật hòa
giải, đối thoại tại Tòa án. Cán bộ, kiểm sát viên cần phải nghiên cứu và nắm
chắc nội dung Luật hòa giải, đối thoại cũng như những quy định cụ thể tại TT
02- 03 của TAND tối cao, đồng thời phối hợp tốt với Tòa án để kiểm sát được
hoạt động hòa giải, đối thoại tại Tòa án của Hòa giải viên cũng như kiểm sát
được quyết định công nhận hoặc không công
nhận kết
quả hòa giải thành, đối thoại thành
của Tòa án được đảm bảo đúng quy định của pháp luật./.
Thu Hương - Phòng 9 VKSND tỉnh Lào Cai